Bản tin Nhà đầu tư

BẢN TIN IR THÁNG 4/2025
07/06/2025

Trong tháng 4/2025, tổng sản lượng bán hàng của Tôn Đông Á đạt 76.101 tấn, tăng 13,2% so với tháng 3/2025 (m/m), nhưng giảm 7,8% so với cùng kỳ năm 2024 (y/y). Lũy kế 4 tháng đầu năm 2025 (4T2025), tổng sản lượng bán hàng đạt 273.388 tấn, giảm nhẹ 4,3% so với 4T2024 (285.671 tấn), phản ánh sự phân hóa rõ giữa thị trường nội địa và xuất khẩu trong bối cảnh ngành thép mạ toàn cầu chịu nhiều biến động. Xu hướng trong cơ cấu tiêu thụ sản phẩm tôn mạ tiếp tục điều chỉnh: thị trường nội địa tương đối ổn định, dù có sự giảm nhẹ hàng tháng do mức nền cao của tháng 3 và sự biến động mạnh bởi công bố thuế quan của Mỹ ngày 2/4/2025, trong khi thị trường xuất khẩu đã hồi phục rõ so với tháng trước nhưng vẫn chịu áp lực lớn từ các chính sách bảo hộ thương mại quốc tế. 

Ngành thép toàn cầu trong 4T2025 đối mặt với biến động giá nguyên liệu và phục hồi giá thép thành phẩm ngắn hạn nhưng chưa bền vững tác động bởi loạt chính sách bảo hộ và nhu cầu yếu. Trung Quốc dù giảm sản lượng thép thô nhưng vẫn đẩy mạnh xuất khẩu, gây áp lực lên ngành thép Việt Nam và thế giới. Ngành thép mạ Việt Nam trong 4T2025 ghi nhận sản lượng tiêu thụ tăng so với cùng kỳ, nhưng xuất khẩu giảm do các rào cản thương mại từ châu Âu và Mỹ. Tiêu thụ tôn mạ tại Việt Nam phục hồi ~10%  y/y nhờ hoạt động phát triển hạ tầng công tăng và mùa xây dựng được ghi nhận cao trong tháng 4/2025. 

Bảng tóm tắt doanh số bán hàng tháng 4/2025

1. Doanh số bán hàng mảng nội địa – Giữ nhịp tăng trưởng

Tháng 4/2025, sản lượng bán hàng nội địa đạt 44.081 tấn, giảm nhẹ 4,0% so với tháng trước do khách hàng đã có thực hiện tái tích trữ cao trong những tháng trước, nhưng vẫn duy trì tăng trưởng 20,3% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 4 tháng, tổng sản lượng nội địa đạt 161.211 tấn, vượt cùng kỳ năm trước với mức tăng 61,9%. Tuy nhiên, mức giảm 4,0% m/m trong tháng 4/2025 do mức nền cao trong tháng 3 cho thấy dấu hiệu chững lại, do áp lực biến động của thị trường đặc biệt tại các quốc gia lớn tại Mỹ, châu Âu, Trung Quốc cản trở sức mua của người tiêu dùng và doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi các công ty phải điều chỉnh chiến lược bán hàng, tập trung vào các phân khúc mang tính ổn định và cắt giảm chi phí.

Tôn mạ kẽm: sản lượng tháng 4 đạt 13.723 tấn, giảm nhẹ 7,8% m/m nhưng tăng 53,4% y/y. Luỹ kế 4T2025 đạt 51.817 tấn (+103,7%), nhờ nhu cầu từ đầu tư hạ tầng, công trình công cộng, nhà xưởng, và dân dụng, đặc biệt là vào mùa các dự án bất động sản tái khởi động và hoạt động tái tích trữ của các nhà phân phối.
Tôn mạ nhôm-kẽm: tháng 4 đạt 14.873 tấn, ổn định hơn với mức giảm nhẹ 2,8% m/m, tăng 7,4% y/y. Luỹ kế 4T2025 đạt 53.750 tấn (+48,5%). Nhu cầu tôn mạ lạnh trong nước ổn định nhờ vào lĩnh vực xây dựng dân dụng, công nghiệp và các cụm công nghiệp mới đi vào hoạt động, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng đã giảm tốc so với tôn mạ kẽm do độ trễ và chững lại của các dự án.
Tôn mạ màu: ghi nhận 15.485 tấn, giảm nhẹ 1,6% m/m, nhưng duy trì tăng trưởng khá tốt 11,7% y/y. Luỹ kế 4T2025 đạt 55.644 tấn (+46,5%), ổn định từ thị trường tôn lợp dân dụng, công nghiệp nhẹ, và vật liệu xây dựng trang trí.

Nhìn chung, sự phục hồi trong tháng 4 và 4T2025 là kết quả của sự cộng hưởng từ đầu tư công, tăng trưởng công nghiệp, sức mua nội địa, và dòng vốn FDI, tạo nền tảng cho ngành thép mạ Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu biến động. Theo dữ liệu từ Bộ Tài chính, giải ngân đầu tư công tăng 16,3% trong 4T2025 so với cùng kỳ, đạt 128,5 nghìn tỷ đồng sau khi giảm 2,5% trong Quý 1/2025, tạo đà cho nhu cầu thép. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 4 tăng 8,8% y/y, so với 6,3% y/y tháng 4/2024, trong đó ngành chế biến chế tạo đạt mức tăng 10,8% YoY, so với mức tăng 7,8% YoY trong tháng 4/2024). Dòng vốn FDI cũng là động lực quan trọng. Vốn FDI đăng ký tháng 4 đạt 2,8 tỷ USD, tăng 64,7% YoY, nâng tổng 4T2025 lên 13,8 tỷ USD (tăng 39,9% YoY), với ngành chế biến chế tạo dẫn đầu (8,9 tỷ USD, chiếm 64,6%). Vốn FDI giải ngân đạt 1,8 tỷ USD tháng 4 (tăng 7,8% YoY) và 6,7 tỷ USD trong 4T2025 (tăng 7,3% YoY), củng cố niềm tin vào tiềm năng công nghiệp Việt Nam. Doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tháng 4 tăng 11,1% YoY (tháng 4/2024: 8,8% YoY), minh chứng cho sức mua nội địa cải thiện. (Nguồn: Bộ Tài chính) 

2. Doanh số xuất khẩu – Phục hồi ngắn hạn, thách thức dài hạn

Sự sụt giảm 39,8% trong sản lượng xuất khẩu 4T2025 đến từ áp lực từ xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng, khiến giá trị xuất khẩu thép mạ đến các nước phát triển giảm. Đồng thời, nhu cầu suy yếu và thừa công suất của ngành thép ở các nước cùng sự cạnh tranh từ thép Trung Quốc tiếp tục vẫn gây áp lực đến các chỉ số giá thép chính. Sự tăng trưởng 50,4% m/m của sản lượng xuất khẩu trong tháng 4/2025 xuất phát từ các hợp đồng xuất khẩu tích lũy từ quý trước, nhưng không bền vững. 

Xuất khẩu tháng 4/2025 đạt 32.020 tấn, tăng 50,4% so với tháng trước, nhưng giảm 30,2% so với cùng kỳ năm trước do mức nền cao. Lũy kế 4 tháng đạt 112.177 tấn, giảm 39,8% so với cùng kỳ năm trước, cho thấy áp lực từ các chính sách bảo hộ thương mại quốc tế vẫn đang hiện hữu.

Tôn mạ kẽm: xuất khẩu tháng 4 đạt 10.524 tấn, phục hồi 28,0% m/m và tăng 21,3% y/y. Tuy nhiên, lũy kế 4T2025 giảm 21,4% y/y, phản ánh áp lực thương mại quốc tế lớn, đặc biệt từ thị trường Mỹ và EU, nhưng công ty đã tái cấu trúc thị trường xuất khẩu và lựa chọn các thị trường ít rủi ro hơn.
Tôn mạ nhôm-kẽm: tháng 4 bật tăng 84,1% m/m lên 21.442 tấn, nhưng vẫn thấp hơn 34,2% y/y. Lũy kế 4T2025 giảm 42,1% y/y, do áp lực từ các biện pháp phòng vệ thương mại ngày càng gia tăng khiến các khách hàng ngày càng thận trọng.
Tôn mạ màu: ghi nhận 54 tấn trong tháng 4 (giảm 98,8% y/y), lũy kế 4T2025 giảm 85,3% y/y

Triển vọng ngành thép cho xuất khẩu dự kiến sẽ tiếp tục gặp khó khăn do chính sách nhập khẩu khắt khe tại các thị trường lớn như Mỹ và EU. Do đó, công ty đã và đang cấp thiết tái cấu trúc và đa dạng hóa thị trường bán hàng đến các khu vực khác có tiềm năng tăng trưởng về xây dựng, công nghiệp, các dự án cơ sở hạ tầng, các trung tâm logistics. Thị trường khu vực ASEAN có khả năng duy trì tăng trưởng ở mức khá mỗi năm nhờ đô thị hóa, phát triển sản xuất và hạ tầng công nghiệp. Tuy nhiên, áp lực cạnh tranh ở các nước cũng ngày càng gay gắt, đặc biệt từ các nhà sản xuất Indonesia và Malaysia mở rộng công suất. Thị trường thép mạ nội địa sẽ tiếp tục giữ vai trò trụ cột, hưởng lợi từ chủ trương của Chính phủ về phát triển kinh tế và đạt mục tiêu GDP, giải ngân các dự án đầu tư công, logistics, năng lượng, dầu khí, song song với sự gia tăng tập trung vào phân khúc sản xuất, xây dựng công nghiệp và dân dụng. Tuy nhiên, tốc độ phục hồi nhu cầu tiêu thụ thép sẽ diễn ra vừa phải và cạnh tranh nội địa sẽ tăng lên do nhiều nhà sản xuất trong nước tăng thêm công suất. 

Bản tin báo cáo này có những nhận định về tương lai trong các kỳ vọng dự định của Công ty có thể liên quan đến những rủi ro và sự không chắc chắn. Bạn đọc không nên xem những nhận định tương lai này là dự đoán sự kiện sẽ xảy ra hoặc lời hứa về kết quả trong tương lai.